Những điều nên biết về bệnh GIANG MAI
Giang mai (syphilis) là một bệnh lây truyền qua đường tình dục
do xoắn khuẩn Treponema pallidum (xoắn khuẩn giang mai) gây ra. Đường lây
truyền của bệnh giang mai hầu như luôn luôn là qua đường tình dục, mặc dù có
những ca thí dụ về bệnh giang mai bẩm sinh do truyền từ mẹ sang con trong tử
cung hoặc khi sinh.
Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh giang mai rất nhiều, do đó
trước khi phương pháp xét nghiệm huyết thanh học ra đời thì việc chẩn đoán
chính xác bệnh giang mai rất khó khăn bởi vì nó thường bị nhầm lẫn với các bệnh
khác, đặc biệt là trong giai đoạn 3.
“Thầy thuốc mà rành về giang mai là rành về y khoa” (William
Osler)
Giang mai có thể điều trị được bằng thuốc kháng sinh như
penicillin. Nếu không chữa trị, bệnh giang mai có thể gây biến chứng cho tim,
động mạch chủ, não, mắt, và xương, trong một số trường hợp có thể gây tử vong.
Bệnh giang mai phát triển theo bốn giai đoạn chính: giai đoạn 1,
giai đoạn 2, giai đoạn ủ bệnh và giai đoạn 3.
Giai đoạn 1
Vết loét hạ cam trên ngón tay. Khác với các bệnh lây truyền qua
đường tình dục khác, bệnh giang mai không chỉ giới hạn ở những bộ phận sinh
dục, mà còn có thể lây truyền qua các tiếp xúc gần khác
Đây là giai đoạn rất quan trọng để phát hiện và điều trị kịp
thời. Khoảng 3-90 ngày sau khi tiếp xúc với nguồn bệnh (trung bình 21 ngày), sẽ
xuất hiện tổn thương da ở các điểm tiếp xúc. Vết loét xuất hiện ở những nơi
tiếp xúc với xoắn khuẩn giang mai, thường là ở bộ phận sinh dục như: môi lớn,
môi bé, âm đạo, cổ tử cung, quy đầu, dương vật hoặc trực tràng. Tổn thương này,
được gọi là săng, là một dạng viêm loét, có đặc điểm nông, hình tròn hay bầu
dục kích thước 0.3 đến 3 cm, bờ nhẵn, màu đỏ, không ngứa, không đau, không có
mủ; đáy vết loét thâm nhiễm cứng và kèm theo nổi hạch hai bên vùng bẹn, cứng và
cũng không đau. Các triệu chứng trên có thể tự biến đi sau 3 đến 6 tuần lễ kể
cả không điều trị nên nhiều người tưởng lầm là khỏi bệnh nhưng thực sự là vi
khuẩn lúc đó đã vào máu, bệnh vẫn tiếp tục phát triển với những biểu hiện khác.
Giai đoạn 2
Triệu chứng của bệnh giang mai giai đoạn thứ phát xuất hiện trên
lòng bàn tay, cũng có khi ở lòng bàn chân.
Giai đoạn 2 xảy ra từ 4 đến 10 tuần sau giai đoạn 1. Giai đoạn
này có rất nhiều biểu hiện khác nhau, ví dụ như: nốt ban đối xứng, màu hồng như
hoa đào (đào ban) không ngứa trên toàn thân hoặc tứ chi bao gồm cả lòng bàn
tay, bàn chân , hình ảnh đào ban màu đỏ hồng hoặc hồng tím như cánh hoa đào, ấn
vào thì mất, không nổi cao trên mặt da, không bong vảy và tự mất đi. Thường khu
trú hai bên mạng sườn, ngực, bụng, chi trên. Đào ban xuất hiện dần trong vòng 1
đến 2 tuần, tồn tại không thay đổi trong vòng 1 -3 tuần sau đó nhạt màu dần rồi
mất đi.
Hoặc bệnh có thể làm xuất hiện các mảng sẩn, nốt phỏng nước, vết
loét ở da và niêm mạc. Mảng sẩn, sẩn các loại, có nhiều kích thước khác nhau,
như bằng hạt đỗ, đinh gim, hoặc sẩn hình liken, ranh giới rõ ràng màu đỏ như
quả dâu, không liên kết với nhau, thường hay bong vảy và có viền da ở xung
quanh sẩn, nếu các sẩn có liên kết với nhau sẽ tạo thành các mảng, hay sẩn
mảng, các sản ở kẽ da do bị cọ xát nhiều có thể bị trợt ra, chảy nước, trong
nước này có chứa rất nhiều xoắn khuẩn nên rất dễ lây khi tiếp xúc với những
bệnh nhân này. Sẩn mủ ít gặp hơn đào ban và các loại sẩn trên, chủ yếu ở những
người nghiện rượu, trông giống như viêm da mủ nông và sâu. Tại các khu vực ẩm
ướt của cơ thể (thường là âm hộ hoặc bìu), phát ban trở nên bằng phẳng, rộng,
màu trắng, hoặc các thương tổn giống như mụn cóc. Các triệu chứng khác thường gặp ở giai đoạn
này bao gồm sốt, đau họng, mệt mỏi, sụt cân, đau đầu, nổi hạch. Một số trường
hợp hiếm gặp có thể kèm theo viêm gan, thận, viêm khớp, viêm màng xương, viêm
dây thần kinh thị giác, viêm màng bồ đào, và viêm giác mạc kẽ. Các triệu chứng
này thường tự biến mất sau 3-6 tuần.
Triệu chứng của bệnh giang mai giai đoạn 2 ở lòng bàn tay.
Nốt nhú đỏ xuất hiện toàn
thân
Ban ngứa dữ dội của bệnh
giang mai giai đoạn 2
Giai đoạn tiềm ẩn
Giang mai tiềm ẩn được xác định khi có bằng chứng huyết thanh
của bệnh nhưng không có dấu hiệu hoặc triệu chứng của bệnh. Giai đoạn này chia
làm 2 loại: thời gian tiềm ẩn dưới 1 năm sau giai đoạn 2 (sớm) và thời gian
tiềm ẩn kéo dài hơn 1 năm sau giai đoạn 2 (muộn). Giang mai tiềm ẩn sớm có thể
tái phát các triệu chứng bệnh, giang mai tiềm ẩn muộn không có triệu chứng và
không lây bằng giang mai tiềm ẩn sớm.
Giai đoạn 3
Giang mai giai đoạn 3 có thể xảy ra khoảng 3-15 năm sau những
triệu chứng của giai đoạn 1 và được chia thành ba hình thức khác nhau: giang
mai thần kinh (6,5%), giang mai tim mạch (10%) và củ giang mai (15%). Những
người bị bệnh giang mai giai đoạn này không lây bệnh.
Củ giang mai xuất hiện từ
1-46 năm sau khi nhiễm bệnh (trung bình 15 năm), có hình cầu hoặc mặt phẳng
không đối xứng, màu đỏ như mận, hơi ngả tím, kích thước bằng hạt ngô, mật độ
chắc, ranh giới rõ ràng, các củ giang mai tiến triển không lành tính, nhất
thiết hoại tử hoặc hoại tử teo hoặc tạo loét, rất chậm lành và ít lây hơn, sau
khi khỏi thường để lại sẹo. Nếu củ, gôm khu trú vào các tổ chức quan trọng và
không được điều trị sẽ đe doạ tính mạng bệnh nhân.
Giang mai thần kinh là
bệnh liên quan đến hệ thống thần kinh trung ương,Nó có thể xảy ra sớm: không có
triệu chứng hoặc biểu hiện lâm sàng bằng viêm màng não, hay sự phân ly giữa
biến đổi dịch não tủy đã rõ rệt và triệu chứng lâm sàng còn thô sơ. Hoặc xảy ra muộn: gây ra tổn thương ngoài
viêm màng não, mạch máu não, còn tổn thương não khu trú hoặc tổn thương thoái
hóa ở não. Giang mai thần kinh thường xảy ra 4-25 năm sau khi nhiễm bệnh. Bệnh
có thể gây suy nhược trầm cảm, rối loạn ý thức từng thời kỳ, động kinh, đột quỵ
hay gây ra ảo giác đối với người bệnh. Giang mai tim mạch thường xảy ra 10-30
năm sau khi nhiễm bệnh. Các biến chứng thường gặp nhất là phình mạch.
Điều trị
Tuy là bệnh nguy hiểm nhưng có thuốc điều trị khỏi hẳn với hiệu
quả cao, miễn là phải được phát hiện sớm và điều trị đúng chỉ dẫn của thầy
thuốc.
Giai đoạn đầu
Lựa chọn đầu tiên cho việc điều trị các bệnh giang mai không
biến chứng là một liều duy nhất penicillin G tiêm bắp.Doxycycline và
tetracycline cũng là sự lựa chọn thay thế, tuy nhiên không thể sử dụng ở phụ nữ
mang thai. Ceftriaxone có thể có hiệu quả tương tự như điều trị bằng
penicillin.
Giai đoạn biến chứng
Do penicillin G ít xâm nhập vào hệ thống thần kinh trung ương
cho nên đối với những bệnh nhân giang mai thần kinh nên được tiêm penicillin
liều cao vào tĩnh mạch tối thiểu là 10 ngày. Nếu bị dị ứng với penicilline thì
có thể được sử dụng cetriaxone thay thế. Điều trị tại thời điểm này sẽ hạn chế
sự tiến triển hơn nữa của bệnh, nhưng không thể cải thiện các thiệt hại do bệnh
đã gây ra.
Phản ứng Jarisch-Herxheimer
Một trong những tác dụng phụ của điều trị là phản ứng
Jarisch-Herxheimer. Phản ứng phụ thường bắt đầu trong vòng một giờ sau khi tiêm
thuốc và kéo dài trong 24 giờ với các triệu chứng sốt, đau cơ, nhức đầu, và
nhịp tim nhanh.
Hiện nay vẫn chưa vác xin chủng ngừa có hiệu quả cho công tác
phòng chống. Không nên quan hệ tình dục hay tiếp xúc vật lý trực tiếp với một
người bị bệnh để tránh lây truyền bệnh giang mai, có thể sử dụng bao cao su
đúng cách, tuy nhiên vẫn có thể không hoàn toàn an toàn. Giang mai không lây
qua nhà vệ sinh, các hoạt động hàng ngày, bồn tắm, hay dụng cụ ăn uống hoặc
quần áo.
12 triệu người nhiễm giang mai vào năm 1999 với hơn 90% trường
hợp ở các nước đang phát triển. Nó ảnh hưởng từ 700.000 và 1.600.000 thai phụ
mỗi năm dẫn đến sẩy thai tự nhiên, thai chết lưu, và giang mai bẩm sinh. Trong
vùngSahara ở châu Phi, giang mai góp phần làm tử vong khoảng 20% trẻ sơ sinh.
Trong thế giới phát triển, các ca nhiễm bệnh giang mai đã suy
giảm cho đến năm 1980 và 1990 do sử dụng rộng rãi các thuốc kháng sinh. Từ năm
2000, tỷ lệ giang mai đã gia tăng tại Mỹ, Anh, Australia và châu Âu chủ yếu ở nam
giới quan hệ tình dục với nam giới (đồng tính luyến ái) do thực hành tình dục
không an toàn.
Tại Hoa Kỳ, nhân viên y tế báo cáo khoảng 32.000 người mắc bệnh
giang mai trong năm 2002, phần lớn ở tuổi 20–39. Cao nhất ở nữ tuổi 20–24 và
nam tuổi 35–39. Năm 2001 có 492 trẻ sơ sinh bị cha mẹ truyền bệnh giang mai,
năm 2002 số này tụt xuống một chút.
Tóm lại tình dục an toàn chung thủy là cách tốt nhất bảo vệ bạn
và bạn tình.
27/01/2015.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét